Theo triết Ấn Độ, con người hiện hữu quy về ba hướng chung và ba đòi hỏi: vũ trụ, Tuyệt đói và Cái tôi.
Khi nhìn về vũ trụ và thực tại tính của nó, chỉ trong sự vật và bằng sự vật, con người mới rút tỉa về vũ trụ qua sự hoài nghi. Người ta hoài nghi về tất cả những cái ta thấy, thậm chí là chính ta. Sự hoài nghi ấy giúp cho ta về chính kinh nghiệm của ngoại giới. Tất cả những điều ấy được gói gọn trong ý nghĩ, ta thực sự hoài nghi và thực sự có điều đáng hoài nghi.
Sự hoài nghi không chỉ dừng lại ở thái độ chán nản, đau khổ, vật vã, nhưng là nỗi hoài nghi trong hy vọng khám phá ra được cái thực sự đang có nơi vũ trụ, diễn ra trong sự vật. Một sự hoài nghi dẫn đến tận cùng để có thể thấu hiểu và đào sâu thực tại tính vũ trụ. Càng nhìn về vũ trụ trong sự hoài nghi, người ta hướng về chính mình là cái tôi và tấn thảm kịch của nó.
Khi suy tư hay nhìn ngắm một đối tượng, ta đặt đối tượng ấy với chính cái tôi của mình. Đây không phải là cái suy tư của Descartes, nhưng là cái ngã của nhà Vedantin. Bởi lẽ cái tôi suy tư của Descartes chỉ là suy tư, chứ không có xác, vì mọi sự dưới cái nhìn suy tư của Descartes đều diễn ra trong trí não. Trong khi đó, cái ngã của Vedantin là là một cái ngã vừa không có xác, lại không có tư tưởng và tình cảm. Tuy vậy, cái ngã này được tìm thấy nơi thể xác, nơi tâm linh và nơi tư tưởng dù có sự biến đổi theo thời gian.
Khi thời gian trở thành một vật cản theo nghĩa làm cho người ta thấy những giới hạn, tư tưởng của Ấn Độ phủ nhận một cái tôi chia theo quá khứ, hiện tại và tương lai. Đây là diễn tả sự khao khát để tìm đến sự hằng cửu trước cái biến dịch của Ấn Giáo.
Trong nỗi lòng khao khát, sự căng thẳng giữa một bên là cái tôi lý tưởng và một bên là cái tôi hiện tại đầy thiếu thốn trước những cái biến đổi, đang ngày càng khẩn trương và thúc bách tôi tìm kiếm cái tôi, đặc biệt khi nhìn dưới lăng kính của hiện sinh . Cái tôi hiện tại của tôi là gì? Cái tôi lý tưởng của tôi cách xa cái tôi hiện tại ra sao? Sự xa cách đó bộc lộ gì về tôi? … Những câu hỏi cứ lần lượt nảy sinh để rồi tôi cứ chập chờn, khắc khoải, mông lung tìm đến cái tôi thực sự của chính mình. Một tấm thảm kịch được dựng lên để tôi thấy mình thật giới hạn.
Để giải quyết tấm thảm kịch đó, tôi không còn khác chi là hoàn toàn trở về với chính mình, nên một với tất cả, hiệp nhất với cái tôi lý tưởng, đồng hóa với cái tuyệt đối trong chủ trương nhất nguyên. Tấm thảm kịch ấy như một lời mời gọi để tôi khám phá những đòi hỏi của Tuyệt đối.
Người ta không thể phủ nhận tuyệt đối vì nếu phủ nhận sẽ phủ nhận tất cả, bởi lẽ Tuyệt đối hiện diện trong tất cả, có mặt trong tất cả, và dĩ nhiên có ngay trong chính con người, Tuyệt đối hiện diện cách gần gũi thân mật, mời gọi tôi quay trở về với tôi, tìm kiếm tuyệt đối trong cái tôi, thể hiện cái tôi giới hạn được trở nên vô hạn trong tầm nhìn hướng về cái tuyệt đối. Nói cách khác, theo thánh Augustinô đó là quay trở về với lòng mình để nhận ra một Thiên Chúa cao hơn hơn cái cao của tôi, sâu hơn cái sâu của tôi, một Thiên Chúa trong lòng con.
Khi ấy, người “thực sự thấy” lại trở nên bình yên trước cái tôi lý tưởng, không bị biến mất trước những cái thay đổi tương đối, trở nên hòa điệu trước những cái đang thay đổi, để thấy lòng bất biến giữa dòng đời vạn biến. Nhưng, khi nhìn thấy cái Tuyệt đối thực sự lại là khởi đầu cho những thắc mắc khó hiểu về những cái tương đối và biến dịch. Có lẽ, một kẻ tâm luôn bất động sẽ thắc mắc về kẻ đang bị xao động bởi những biến dịch đang diễn ra trong kẻ đang bị xao động.
Sự bất biến gọi mời gọi nhìn từ chối thời gian. Từ chối thời gian để không nhìn sự vật dưới vật cản quá khứ, hiện tại và tương lai, nhưng nhìn dưới lăng kính của cái nhìn vượt thời gian, một cái nhìn vô hạn định trong mọi vật. Càng nhìn mọi vật vô hạn định, không để cho thời gian chiếm hữu cái nhìn, người ta lại càng cảm nếm cái thâm sâu của sự vật, nhờ đó, những thành kiến cố hữu có cơ hội được vượt thoát, thay vào đó là cái nhìn vĩnh cửa và huyền bí về sự vật. Qua đó, tôi bằng lòng với tôi trong hiện tại biến dịch của tôi.
Vì mong muốn cái tuyệt đối, ưa cái bất biến, e ngại cái biến dịch, Ấn Độ không coi trọng hình danh, sắc tướng, vì lẽ những thứ ấy biến đổi. Càng khi chê biến dịch là càng mong mỏi cái hằng tại, sâu xa, tiềm tàng trong tất cả sự vật. Có thể hiểu rằng, Ấn Độ không nhìn cái bát với vẻ đẹp của nó, nhưng nhìn vào đất sét là cái ban đầu trước khi thành hình cái bát. Như vậy, không có nghĩa, không coi trọng thực tại, nhưng Ấn Độ mong muốn tìm kiếm sâu xa, chứ không chỉ là thứ hình thức bên ngoài. Nếu triết Hy Lạp đánh giá mô thể hơn chất thể là để nói đến cái vĩnh hằng thì triết Ấn lại coi trong cái chất thể là cái khởi đầu trước khi thành hình.
Vì khao khát cái bất biến, khinh chê cái biến dịch với ước ao tìm kiếm những hạnh phúc sâu xa ẩn chứa trong vụ trụ vạn vật, Ấn Độ không mong tìm niềm vui nơi ngôn từ, nhưng là khắc khoải khát tìm kiếm ngôn từ của thinh lặng. Đây không phải là sự thinh lặng không nói gì, nhưng là một sự thinh lặng hiệp nhất giữa tư tưởng và ngôn từ. Khi chính ngôn từ hiệp nhất trong tư tưởng, người ta xóa mình trong một thực tại biến dịch để tìm thấy một sự bất biến vĩnh cửu. Phải chăng đó là cảm giác của kẻ tu hành khi lời kinh thấm nhuần trong từng chi thể, để xóa khỏi những phiền muộn, tìm về cái bất biến của sự hiệp nhất giữa cái tôi yếu đuối và cái tôi lý tưởng? Phải chăng đó là cái lời không thành lời, nhưng không phải là không lời, nhưng lại là lời chìm sâu vào trong và là chính bản thể của tôi? Chính cái âm u và huyền bí ấy là cách thế diễn tả tình yêu với lời vì làm cho lời cho trở nên nền tảng, bất chấp những đòi hỏi của thể xác, mà trong Kinh Thánh Công giáo có nói: “Người ta không chỉ ăn cơm bánh, nhưng nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”
Giáng sinh sắp đến, ngôi Lời nhập thể, tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại được hiện hình trong Hài Nhi Giêsu. Có lẽ, với lăng kính của triết Ấn, sự ra đời của hài nhi Giêsu như một lời mời gọi con người tìm kiếm vũ trụ, cái tôi và tuyệt đối nơi một Thiên Chúa làm người qua sự nhỏ bé và khiêm nhường trong hang bò lừa, chứ không tìm kiếm những phóng túng hay lạc thú của những bữa tiệc Giáng sinh. Một tiếng gọi mời để tìm sự sâu thẳm của đời sống.